Bạc má lớn

loài chim trong họ Bạc má

Bạc má lớn (danh pháp hai phần: Parus major) là một loài chim trong họ Bạc má. Bạc má lớn là một loài phổ biến ở châu Âu, Trung Đông, Trung Á, phân bố đến tận phía đông khu vực sinh thái Cổ Bắc giới, sông Amur và phân bố tại một phần Bắc Phi. Bạc má lớn hầu như không di trú nếu mùa đông không quá khắc nghiệt. Trước năm 2005, loài này được gộp chung với rất nhiều phân loài khác. Các nghiên cứu DNA cho thấy sự khác biệt giữa một số phân loài của bạc má lớn. Hiện nay các phân loài này đã được tách ra thành hai loài riêng biệt là bạc má lưng xám (Parus cinereus) ở Nam Á và bạc má Nhật Bản (Parus minor) ở Đông Á. Bạc má lớn vẫn là loài phổ biến nhất trong chi Parus.

Bạc má lớn
Một con chim có một cái đầu màu đen với một cái má trắng nổi bật, một cái lưng màu xanh lục, một cánh màu xanh với một cái vạch trắng nổi bật, và một cái bụng màu vàng.
Con mái ở Lancashire, Anh.
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Aves
Bộ: Passeriformes
Họ: Paridae
Chi: Parus
Loài:
P. major
Danh pháp hai phần
Parus major
Linnaeus, 1758
Map of Eurasia and North Africa with ranges depicted in four colours
Phạm vi phân bố các phân loài trước đây và hiện tại của bạc má lớn

Bạc má lớn là loài chim có đặc điểm: đầu đen, cổ và má trắng, lưng màu ô liu và thân dưới màu vàng, có một số khác biệt giữa các phân loài. Loài chim này chủ yếu ăn côn trùng vào mùa hè, ăn nhiều loại thức ăn hơn trong những tháng mùa đông, chim ăn cả con dơi nhỏ đang ngủ đông.[2] Giống như các loài bạc má khác, bạc má lớn làm tổ trong hốc cây. Chim mẹ đẻ khoảng 12 quả trứng và ấp trứng một mình. Cả chim bố và chim mẹ đều nuôi chim non. Mỗi năm chim sinh hai lứa. Tổ của chúng có thể bị gõ kiến nhỏ sườn đỏ, sóc xám miền Đôngtriết bụng trắng tấn công, và bị bọ chét ký sinh. Chim trưởng thành bị chim cắt hỏa mai săn bắt. Bạc má lớn đã thích nghi tốt với những thay đổi của con người đối với môi trường, và là loài chim phổ biến và quen thuộc trong các công viên và khu vườn đô thị. Bạc má lớn cũng là một loài nghiên cứu quan trọng trong ngành điểu học.

Phân loại

sửa
 
Bạc má lớn ở Thụy Điển, mùa đông năm 2016.

Theo phiên bản thứ 10 của Systema Naturae năm 1758, Carl Linnaeus đặt danh pháp khoa học cho bạc má lớn là Parus major.[3] Tên khoa học của loài có nguồn gốc từ tiếng Latinh: parus (bạc má) và maior (rộng lớn).[4] Francis Willughby đã sử dụng tên này vào thế kỷ 17.[5]

Bạc má lớn trước đây được cho là phân bố từ Anh đến Nhật Bản và phía nam đến các đảo của Indonesia, với 36 phân loài được mô tả thuộc bốn nhóm phân loài chính. Nhóm major có 13 phân loài phân bố trên khắp châu Âu, vùng ôn đới châu Á và Bắc Phi. Nhóm minor với 9 phân loài phân bố từ đông nam Nga và Nhật Bản đến phía bắc của đông nam châu Á. Nhóm cinereus với 11 phân loài được tìm thấy từ Iran qua Nam Á đến Indonesia. Ba phân loài bokharensis thường được coi là một loài riêng biệt, Parus bokharensis. Cách phân loại này từng được cho là tạo thành một loài vành đai quanh Cao nguyên Tây Tạng, với dòng gen chung xuyên suốt các phân loài. Tuy nhiên, lý thuyết này đã bị bác bỏ khi việc kiểm tra các chuỗi DNA ty thể đã phát hiện ra rằng bốn nhóm là đơn ngành, và các vùng lai giữa các nhóm là kết quả của quá trình lai thứ cấp sau khoảng thời gian tạm tách biệt nhau.[6][7]

 
11 phân loài của Parus cinereus đã từng được gộp chung với bạc má lớn. Tuy nhiên, các nghiên cứu về di truyền và âm thanh sinh học gần đây hiện đã tách chúng thành một loài riêng biệt.

Một nghiên cứu được công bố vào năm 2005 đã xác nhận sự khác biệt giữa nhóm major với nhóm cinereus và nhóm minor, và cùng với phân loài P. m. bokharensis tách khỏi hai nhóm này vào khoảng 1,5 triệu năm trước. Sự khác biệt giữa nhóm bokharensis và các nhóm khác được ước tính là từ khoảng nửa triệu năm trước. Nghiên cứu cũng kiểm tra các giống lai của đại diện các nhóm majorminorThung lũng Amur, nơi có sự giao thoa của hai nhóm. Kết quả cho thấy con lai rất hiếm, tức là có một số rào cản sinh sản giữa hai nhóm. Nghiên cứu khuyến nghị tách hai nhóm phía đông thành loài mới bao gồm: bạc má lưng xám (Parus cinereus) và bạc má Nhật Bản (Parus minor). Riêng bạc má Turkestan thì vẫn gộp chung với bạc má lớn.[8] Cách phân loại này đã được một số cơ quan có thẩm quyền tuân theo, như là Danh sách các loài chim trên thế giới của IOC (IOC World Bird List).[9] Cẩm nang về các loài chim trên thế giới (Handbook of the Birds of the World) thì phân loại các loài thuộc chi Parus theo cách ban đầu: coi bạc má Turkestan là một loài riêng biệt, nhưng vẫn gộp bạc má Nhật Bản và bạc má lưng xám với bạc má lớn,[10] các phân loại này gây nhiều tranh cãi.[11]

Phân loài đại diện của bạc má lớn là phân loài phổ biến nhất, với phạm vi trải dài từ bán đảo Iberia đến thung lũng Amur và từ Scandinavia đến Trung Đông. Các phân loài khác phân bố hẹp hơn nhiều, bốn phân loài có phân bố hạn chế ở các đảo và phần còn lại của phân loài P. m. major phân bố ở các vùng biệt cư để tránh kỷ băng hà trước đây. Sự phổ biến của một phân loài duy nhất, đồng nhất về mặt hình thái trên một khu vực rộng lớn như vậy cho thấy rằng phân loài đại diện đã nhanh chóng tái định cư trên một khu vực rộng lớn sau kỷ băng hà cuối cùng. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu di truyền cho thấy một thắt cổ chai di truyền gần đây về mặt địa chất, dẫn đến sự gia tăng dân số nhanh chóng.[10]

Chi Parus từng bao gồm hầu hết các loài chim bạc má trong họ Paridae, nhưng các nghiên cứu về hình thái và di truyền đã dẫn đến việc chia tách chi lớn vào năm 1998. Bạc má lớn được giữ lại trong Parus và cùng với Cyanistes tạo thành một dòng chim được biết đến là "những loài không tích trữ", có liên quan đến tập tính tích trữ của các loài ở nhánh khác. Chi Parus vẫn là chi lớn nhất trong họ, nhưng có thể tiếp tục bị tách ra.[10] Nếu không tính những loài trước đây được coi là phân loài, họ hàng gần nhất của bạc má lớn là bạc má cánh trắng (Machlolophus nuchalis) và bạc má lưng xanh (Parus monticolus) ở miền nam châu Á. Các giống lai với các loài ngoài chi Parus rất hiếm nhưng đã được ghi nhận với sẻ ngô xanh, sẻ ngô than và có thể là bạc má đầm lầy (Poecile palustris).[12]

Phân loài

sửa
 
Tại Vườn thực vật hoàng gia Kew, Luân Đôn. Phân loài Anh P. m. newtoni.

Hiện có 15 phân loài được công nhận:[10]

Mô tả

sửa
 
Ở con cái và con non, sọc giữa bụng hẹp hơn và đôi khi không liên tục.

Bạc má lớn dài từ 12,5 đến 14,0 cm (4,9–5,5 in), và có vẻ ngoài đặc biệt giúp dễ dàng nhận ra. Phân loài đại diện P. m. majorđỉnh đầu màu xanh đen, cổ, họng, yếm và đầu màu đen, má và vành tai màu trắng. Ngực có màu vàng chanh sáng và có một sọc rộng màu đen ở giữa chạy từ yếm đến mông. Có một đốm trắng mờ trên cổ chuyển sang màu vàng xanh ở phía trên gáy. Phần còn lại của gáy và lưng có màu xanh ô liu. Phần trên của cánh có màu xanh lá cây, phần dưới của cánh có màu xám xanh với vạch cánh màu trắng. Đuôi có màu xám xanh với vành ngoài màu trắng. Bộ lông của con cái tương tự như của con đực, ngoại trừ màu sắc tổng thể nhạt hơn, yếm có màu đen nhạt hơn,[10] cũng như sọc chạy xuống bụng cũng hẹp hơn và đôi khi bị đứt đoạn.[15] Chim non giống chim mái, ngoại trừ việc chúng có gáy và cổ màu nâu ô liu xỉn, mông màu xám và đuôi xám hơn, với các đầu màu trắng không rõ ràng.[10]

 
Bộ lông của con đực thường sáng hơn, mặc dù điều này thay đổi theo phân loài.

Có một số khác biệt giữa các phân loài. P. m. newtoni giống như phân loài đại diện nhưng có mỏ dài hơn một chút, phần trên cánh có màu xanh đậm hơn một chút, vành đuôi ít trắng hơn, và sọc giữa bụng rộng hơn. P. m. corsus cũng giống phân loài đại diện nhưng có phần trên xỉn màu hơn, vành đuôi ít trắng hơn và gáy ít vàng hơn. P. m. mallorcae giống phân loài đại diện, nhưng có mỏ lớn hơn, phần trên xanh xám hơn và phần dưới hơi nhạt hơn. P. m. ecki giống như P. m. mallorcae ngoại trừ phần trên xanh hơn và phần dưới nhạt hơn. P. m. excelsus tương tự như phân loài đại diện, nhưng có phần trên có màu xanh lá cây sáng hơn nhiều, phần dưới màu vàng sáng và không có (hoặc rất ít) màu trắng ở đuôi. P. m. aphrodite có phần trên sẫm màu hơn, xám ô liu hơn và phần dưới có màu vàng kem nhạt hơn. P. m. niethammeri tương tự như P. m. aphrodite nhưng phần trên xanh nhạt hơn, còn phần dưới màu vàng nhạt. P. m. terrasanctae giống với hai phân loài trước đó nhưng có phần trên hơi nhạt hơn. P. m. blandfordi giống như phân loài đại diện nhưng có phần trên cánh xám hơn, có phần ngang vai và phần dưới màu vàng nhạt, còn P. m. karelini là trung gian giữa phân loài đại diện và P. m. blandfordi, và không có vành trắng ở đuôi. P. m. bokharensis có bộ lông xám hơn nhiều, phần dưới có màu trắng kem nhạt đến xám, một mảng màu trắng lớn hơn, đuôi, cánh, lưng và gáy màu xám. Phân loài cũng nhỏ hơn một chút, mỏ nhỏ hơn nhưng đuôi dài hơn. Điều này cũng tương tự đối với hai phân loài có liên quan trong nhóm bạc má Turkestan. P. m. turkestanicus giống P. m. bokharensis nhưng có mỏ lớn hơn và phần trên sẫm màu hơn. P. m. ferghanensis giống P. m. bokharensis nhưng có mỏ nhỏ hơn, màu xám đậm hơn ở hai bên sườn và màu vàng hơn ở những con chim non.[10]

 
Bạc mái cái (trái) và đực (phải)

Màu ngực của chim trống đã được chứng minh là có tương quan với việc có tinh trùng khỏe hơn, và là một cách mà chim trống thể hiện ưu thế sinh sản của mình với chim mái. Hàm lượng carotenoid cao hơn làm tăng sắc vàng ở ngực, đồng thời giúp tinh trùng chống chọi tốt hơn với sự tấn công của các gốc tự do.[16] Chim không thể tổng hợp được carotenoid mà phải lấy từ thức ăn, vì vậy màu sắc càng tươi sáng ở chim trống chứng tỏ khả năng hấp thụ dinh dưỡng của chúng càng tốt.[17] Tuy nhiên, độ bão hòa của màu vàng cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường, chẳng hạn như điều kiện thời tiết.[18] Chiều rộng sọc bụng của con đực, khác biệt ở từng cá thể, là một tiêu chí để con cái lựa chọn, với những con cái tốt hơn dường như chọn những con đực có sọc rộng hơn.[15]

Tiếng hót

sửa
Tiếng hót của loài
Một kiểu tiếng kêu khác
 
Tiếng kêu của loài ở dạng quang phổ

Giống như các loài bạc má khác, bạc má lớn là loài chim biết hót, thậm chí loài có tới 40 kiểu kêu và giọng hót. Các tiếng kêu nói chung giống nhau giữa các giới tính, nhưng con đực kêu nhiều hơn và con cái hiếm khi kêu. Các nốt đơn nhẹ như "pit", "spick" hoặc "chit" được sử dụng làm cách gọi liên lạc. Tiếng "tink" lớn được những con đực trưởng thành sử dụng để báo động hoặc trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ. Một trong những tiếng kêu quen thuộc nhất là "teacher, teacher", thường được ví như tiếng bánh xe rùa, được sử dụng để tuyên bố quyền sở hữu lãnh thổ.[10] Trước đây, dân gian Anh coi tiếng kêu "mài cưa" là điềm báo trước mưa.[19] Có rất ít sự khác biệt về địa lý trong tiếng kêu, nhưng các cá thể của hai nhóm Nam Á gần đây đã tách khỏi chim bạc má lớn không nhận ra hoặc phản ứng với tiếng kêu của nhóm ôn đới.[10]

Một lời giải thích cho tiếng kêu phong phú của bạc má lớn là giả thuyết Beau Geste. Giả thuyết này lấy tên từ tiểu thuyết phiêu lưu mang tựa đề Beau Geste của nhà văn người Anh P. C. Wren, trong đó nhân vật chính Michael "Beau" Geste đã dựng xác những người lính đã ngã xuống để xây dựng các trận địa nhằm đánh lừa phe địch cho rằng pháo đài đang được bảo vệ tốt. Tương tự như vậy, sự đa dạng của tiếng hót mang lại ấn tượng rằng lãnh thổ của bạc má có mật độ phân bố cá thể dày đặc hơn so với thực tế. Cho dù giả thuyết này có đúng hay không, những con chim có vốn tiếng hót lớn sẽ chiếm ưu thế về mặt xã hội và sinh sản thành công hơn.[20]

Phân bố, môi trường sống và di chuyển

sửa
 
Hộp tổ cho bạc má lớn ở Altenbeken, Đức
 
Bạc má lớn đang hót

Bạc má lớn phân bố rộng khắp lục địa Á-Âu. Chúng được tìm thấy trên khắp châu Âu trừ Iceland và phía bắc Scandinavia, bao gồm cả nhiều hòn đảo ở Địa Trung Hải. Tại Bắc Phi, loài được tìm thấy ở Maroc, AlgérieTunisia. Nó cũng hiện diện ở Trung Đông, khu vực ở Trung Á từ phía bắc IranAfghanistan đến Mông Cổ, trên khắp miền bắc Á từ dãy núi Ural đến phía đông tại miền bắc Trung Quốc và Thung lũng Amur.[10]

 
Rừng hỗn hợp là một trong những nơi sinh sống của bạc má lớn ở châu Âu.

Bạc má lớn xuất hiện tại nhiều loại các môi trường sống. Loài này thường sống trong rừng thưa, rừng hỗn hợp, vùng ven rừng và các khu vườn. Chim cũng được tìm thấy ở những khu rừng dày đặc, bao gồm rừng tùng. Ở miền Bắc Siberia, loài được tìm thấy ở các cánh rừng taiga ở phía bắc. Tại Bắc Phi, loài có mặt ở rừng sồi cũng như là các khu vực tuyết tùng Atlas và thậm chí cả lùm cây cau. Ở phía đông bao gồm Siberia, Mông Cổ và Trung Quốc, chúng ưa thích rừng liễu và rừng bạch dương ven sông. Các phân loài Turkestan ở Trung Á cũng cư trú ở các cánh rừng này, cũng như cây bụi thấp, ốc đảo. Ở nơi cao hơn, chúng có mặt ở các môi trường sống khác nhau, từ rừng rụng lá rậm và rừng lá kim đến các khu vực mở có cây phân tán.[10]

Bạc má lớn thường không di cư. Các cặp chim thường sẽ vẫn ở gần hoặc trong lãnh thổ của chúng quanh năm, ngay cả trong các khu vực phía bắc trong phạm vi phân bố của chúng. Chim non sẽ rời lãnh thổ của chim bố mẹ, nhưng thường không xa. Các quần thể bạc má lớn lên đến cả ngàn cá thể có thể di trú trong mùa đông khắc nghiệt, theo một cách không thể lường trước từ bắc Âu đến Baltic, Hà Lan, Anh và thậm chí tận nam Balkan.[21]

Bạc má lớn đã được du nhập thành công vào Hoa Kỳ. Chúng được thả ở gần Cincinnati khoảng từ năm 1872 đến 1874 nhưng không thiết lập được tổ. Các kiến nghị cho rằng bạc má lớn là một biện pháp kiểm soát tuyệt vời đối với loài bướm đêm gây hại Cydia pomonella, dẫn đến việc du nhập chúng vào một số khu vực mới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên kế hoạch này đã không được thực hiện.[22] Một quần thể nhỏ hiện diện ở thượng lưu Trung Tây được cho là hậu duệ của những cá thể chim được thả ở Chicago vào năm 2002 cùng với sẻ thông vàng châu Âu, quạ thông Á Âu, sẻ khướu, sẻ thông châu Âu, sẻ thông Saffron, sẻ ngô xanhhồng tước, mặc dù một số loài có thể đã được du nhập trước.[23] Bạc má lớn đã được nhập nội vào tỉnh Almaty (nay nằm ở Kazakhstan) vào những năm 1960–61 và đã thiết lập các tổ, dù tình trạng hiện tại của chúng không rõ lắm.[24]

Hành vi

sửa

Chế độ ăn uống và cho ăn

sửa
 
Giống như những loài bạc má khác, bạc má lớn vận chuyển thức ăn bằng mỏ của chúng, sau đó chuyển nó xuống chân của chúng, nơi thức ăn được giữ trong khi chúng ăn.

Bạc má lớn chủ yếu ăn côn trùngnhện mà chúng bắt được bằng cách mót tán vào mùa hè.[25] Những con mồi không xương sống lớn hơn của loài bao gồm gián, châu chấu, dế, bọ cánh gân, bọ cánh da, bọ cánh nửa, kiến, ruồi, bọ cánh lông, bọ cánh cứng, ruồi bọ cạp, bọ chân dài, ongong bắp cày, ốc sênbọ chân đều.[10] Trong mùa sinh sản, bạc má lớn thường cho con ăn sâu bướm giàu protein.[26] Một nghiên cứu được công bố vào năm 2007 cho thấy rằng bạc má lớn giúp giảm tới 50% thiệt hại do sâu bướm gây ra trong vườn táo.[27] Chim non cũng được cho ăn một số loài nhện trong giai đoạn phát triển ban đầu, có thể vì lý do dinh dưỡng.[26] Vào mùa thu và mùa đông, khi côn trùng trở nên khan hiếm hơn, bạc má lớn sẽ ăn thêm quả mọnghạt. Hạt và quả thường là từ cây rụng lá và cây bụi, chẳng hạn như hạt của cây cửcây trăn. Chim cũng sẽ lấy đồ ăn thừa trên bàn, hạt đậu phộnghướng dương từ bàn chim, nếu có sẵn. Trong mùa đông cực kỳ khắc nghiệt, chúng ăn hạt hướng dương, loại thực phẩm chiếm 44% trọng lượng cơ thể.[10] Chim thường kiếm ăn trên mặt đất, đặc biệt là vào những năm có số lượng hạt sồi cao.[25] Bạc má lớn, cùng với những loài bạc má khác, sẽ tham gia vào đàn kiếm ăn hỗn hợp của các loài trong mùa đông.[12]

 
Bạc má lớn đang cho con non ăn một con côn trùng.

Các loại thực phẩm lớn, như hạt hoặc con mồi lớn, được đập vỡ, trong đó thức ăn được giữ bằng một hoặc cả hai chân và sau đó dùng mỏ đập nát cho đến khi có thể ăn được. Bằng cách này, bạc má lớn có thể đập vỡ một hạt phỉ trong khoảng 20 phút. Khi cho con non ăn, con trưởng thành sẽ loại bỏ đầu những con côn trùng lớn để dễ ăn hơn, đồng thời loại bỏ ruột côn trùng để tanin trong ruột không làm chim con chậm lớn.[10]

Bạc má lớn kết hợp tính linh hoạt trong chế độ ăn uống với trí thông minh đáng kể và khả năng giải quyết vấn đề bằng cách học hỏi sâu sắc, tức là giải quyết vấn đề thông qua hiểu biết lớn hơn là thử và sai.[10] Ở Anh, bạc má lớn đã học cách đập vỡ nắp giấy bạc của những chai sữa được giao trước cửa nhà để lấy phần kem trên cùng.[28] Hành vi này được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1921, và đã lan rộng nhanh chóng trong hai thập kỷ tiếp theo.[29] Vào năm 2009, người ta phát hiện những cá thể bạc má lớn đã giết và ăn não của những con dơi muỗi đang ngủ. Đây là lần đầu tiên một loài chim biết hót được ghi nhận có con mồi là dơi. Bạc má chỉ làm điều này trong mùa đông khi dơi đang ngủ đông và các loại thức ăn khác đang khan hiếm.[30] Chúng cũng đã được ghi nhận là biết sử dụng các công cụ, như là dùng một cây kim bằng gỗ thông để lấy ấu trùng từ một cái lỗ trên cây.[10]

Sinh sản

sửa

Bạc má lớn là loài sinh sản một vợ một chồng (bạn đời suốt đời) và thiết lập lãnh thổ sinh sản.[31] Chim thiết lập các lãnh thổ này vào cuối tháng một, và bắt đầu xây dựng tổ vào cuối mùa đông hoặc đầu mùa xuân.[10] Các lãnh thổ thường được tái sử dụng trong những năm liên tiếp, ngay cả khi một trong hai cá thể của cặp chết, miễn là đàn chim con được nuôi dưỡng thành công. Con cái có thể phân tán đến các lãnh thổ mới nếu tổ của chúng có trước năm trước. Nếu vì một lý do nào đó mà cặp đôi từ bỏ nhau thì đàn chim sẽ phân tán, với những con cái sẽ di chuyển xa hơn con đực để thiết lập lãnh thổ mới.[32] Mặc dù bạc má lớn là loài một vợ một chồng về mặt xã hội, tình trạng lăng nhăng ở các cặp chim diễn ra thường xuyên. Một nghiên cứu ở Đức cho thấy 40% số tổ chứa một số con non do chim bố mẹ sinh sản chứ không phải do con đực khác, và 8,5% tổng số chim con là kết quả của việc cắm sừng.[33] Những con đực trưởng thành có xu hướng sinh sản thành công hơn so với những con chưa trưởng thành.[34]

 
Trứng của loài, tại Bảo tàng Wiesbaden
 
Chim con trong tổ

Bạc má lớn là loài sinh sản theo mùa. Thời gian sinh sản chính xác thay đổi tùy theo một số yếu tố, quan trọng nhất là địa điểm. Mùa sinh sản hầu hết xảy ra từ tháng 1 đến tháng 9. Ở châu Âu, mùa sinh sản thường bắt đầu sau tháng 3. Ở Israel, có những ghi chép đặc biệt về việc sinh sản trong các tháng 10 đến tháng 12. Lượng ánh sáng mặt trời và nhiệt độ ban ngày cũng sẽ ảnh hưởng đến thời gian sinh sản.[10] Một nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa thời điểm đẻ trứng và số lượng con mồi là sâu bướm, và điều này lại tương quan với nhiệt độ.[35] Ở cấp độ cá thể, những con cái trẻ hơn có xu hướng bắt đầu đẻ muộn hơn những con cái lớn hơn.[36]

 
Chim rời hộp tổ
 
Chim ấp trứng trong hộp tổ

Bạc má lớn là loài làm tổ trong hốc. Chúng thường sinh sản trong một cái lỗ bên trong cây, hoặc đôi khi là ở trên tường hoặc mặt đá, và chúng thường hay chui vào các hộp làm tổ. Con cái làm tổ bên trong hốc bằng sợi thực vật, cỏ, rêu, tóc, len và lông vũ. Số lượng trứng trong cùng một lần đẻ thường rất lớn, thường là từ 5 đến 12, và có thể lên đến 18. Số lượng trứng thấp hơn khi chim đẻ muộn hơn, hoặc khi mật độ đối thủ cạnh tranh cao hơn.[37] Các cặp chim trẻ thường có số lượng trứng nhỏ hơn. Tính cách biệt cũng ảnh hưởng đến kích thước bầy, với những cá thể trên các đảo xa bờ đẻ trứng ít hơn và to hơn so với các các thể trên đất liền.[38] Trứng có màu trắng với những đốm đỏ. Con cái đảm nhận việc ấp trứng và được con đực cho ăn trong quá trình ấp trứng.[10] Bạc má lớn là loài chim gần gũi, rít lên khi bị quấy rầy. Thời điểm trứng nở được đồng bộ hóa tốt nhất với mức có sẵn con mồi cao nhất, có thể được điều chỉnh khi điều kiện môi trường thay đổi sau khi đẻ quả trứng đầu tiên bằng cách trì hoãn thời gian bắt đầu ấp, đẻ thêm trứng hoặc tạm dừng ấp.[39] Thời gian ấp trứng từ 12 đến 15 ngày.[10]

 
Một con chim con đã biết bay.

Giống như các loài bạc má khác, chim con nở ra không có lông và bị mù. Khi lông bắt đầu mọc ra, những cá thể con chậm phát triển hơn có bộ lông có màu carotenoid tương tự như bố mẹ của chúng (trong khi ở hầu hết các loài, bộ lông có màu xám để tránh bị ăn thịt). Gáy có màu vàng và có thể phản xạ tia cực tím để thu hút sự chú ý của chim bố mẹ. Điều này có thể giúp chúng dễ tìm thấy hơn trong điều kiện ánh sáng yếu, hoặc là một tín hiệu về thể trạng để thu hút sự chú ý của bố mẹ. Mảng màu sau gáy chuyển sang màu trắng sau lần thay lông đầu tiên khi được hai tháng tuổi, và thu hẹp lại khi chim lớn lên.[40]

Chim con được cho ăn khoảng 6 đến 7 g (0,21–0,25 oz) thức ăn mỗi ngày.[10] Cả chim bố và mẹ đều cho chim con ăn, và vệ sinh tổ bằng cách loại bỏ phân. Không có sự khác biệt về nỗ lực kiếm ăn giữa hai giới.[41] Thời gian ở tổ của chim con kéo dài từ 16 đến 22 ngày, và độc lập với bố mẹ tám ngày sau khi biết bay. Việc cho chim non ăn có thể tiếp tục sau khi chim con độc lập, kéo dài đến 25 ngày ở lứa chim con đầu tiên, nhưng lên đến 50 ngày ở lứa thứ hai.[10] Những cá thể con từ lứa thứ hai có hệ thống miễn dịch và tình trạng cơ thể yếu hơn so với những con từ lứa đầu tiên, do đó chim con có tỷ lệ sống sót thấp hơn.[42]

Thoái hóa giống ở bạc má lớn xảy ra khi chim con được tạo ra do sự giao phối giữa những cá thể có họ hàng gần. Thể lực giảm sút thường được coi là hậu quả của sự gia tăng biểu hiện của các alen lặn có hại ở những cá thể con này. Trong các quần thể tự nhiên của P. major, giao phối cận huyết được giảm thiểu bằng cách phân tán các cá thể khỏi nơi sinh của chúng, điều này làm giảm nguy cơ giao phối với họ hàng gần.[43]

Sinh thái học

sửa

Cắt hỏa mai là loài săn bạc má lớn. Những cá thể con từ lứa thứ hai có nguy cơ cao bị tấn công hơn, một phần là do loài diều hâu này cần nhiều thức ăn hơn cho con non đang phát triển của chính chúng.[44][45] Tổ của bạc má lớn thường bị gõ kiến ​​nhỏ sườn đỏ tấn công, đặc biệt là các tổ trong một số loại hộp tổ nhất định.[46] Sóc xám miền Đông du nhập (ở Anh) và triết bụng trắng cũng là những loài săn mồi ở tổ, và chúng cũng có thể bắt những con trưởng thành làm tổ.[47] Một loài rận (Mallophaga), được mô tả là Rostrinirmus hudeci, đã được phân lập và mô tả vào năm 1981 từ bạc má lớn ở trung tâm châu Âu.[48] ​​Bọ chét gà mái Ceratophyllus gallinae cực kỳ phổ biến trong tổ của sẻ ngô xanh và bạc má lớn. Ban đầu chúng là một loài bọ chét bạc má chuyên biệt, nhưng điều kiện khô ráo, đông đúc của chuồng gà đã giúp chúng phát triển mạnh mẽ với vật chủ mới.[49] Loài bọ chét này thường bị bọ hề Gnathoncus punctulatus săn.[49] Ngoài ra bọ cánh cứng Microglotta pulla cũng ăn bọ chét và ấu trùng của chúng. Mặc dù những con bọ cánh cứng này thường ở trong những chiếc tổ bỏ hoang, chúng chỉ có thể sinh sản ở nhiệt độ cao do chim ấp trứng tạo ra, mà bạc má là vật chủ ưa thích. Những cá thể bạc má lớn cạnh tranh với những con đớp ruồi châu Âu để giành các hộp làm tổ, và có thể giết chết những con đớp ruồi đực. Các vụ cạnh tranh chết chóc xảy ra thường xuyên hơn khi thời gian làm tổ trùng nhau, và biến đổi khí hậu đã làm thời gian làm tổ đồng bộ hơn giữa hai loài và gây ra cái chết của đớp ruồi. Sau khi giết chết những con đớp ruồi, các cá thể bạc má lớn có thể ăn não của chúng.[50]

Sinh lý học

sửa

Bộ ngực lớn của loài được phát hiện là có khả năng thích nghi sinh lý đặc biệt với môi trường lạnh. Khi chuẩn bị cho những tháng mùa đông, chim có thể tăng mức độ sinh nhiệt máu của chúng.[51] Cơ chế cho sự thích ứng này là sự gia tăng theo mùa về thể tích ty thể và quá trình hô hấp của ty thể trong các tế bào hồng cầu, cùng sự gia tăng tách rời chuỗi chuyền điện tử từ quá trình sản xuất ATP.[51] Kết quả là năng lượng lẽ ra được sử dụng để tạo ATP thì được giải phóng dưới dạng nhiệt và máu của chúng trở nên sinh nhiệt nhiều hơn.[51] Trước tình trạng thiếu lương thực trong mùa đông, bạc má lớn cũng đã thể hiện một kiểu co mạch máu ngoại vi để giảm mất nhiệt và tổn thương do lạnh.[52] Giảm tổn thương do lạnh và mất nhiệt được thực hiện nhờ sự sắp xếp mạch máu ngược dòng của ngực lớn, và sự co mạch ngoại vi ở các mạch chính trong và xung quanh mỏ và chân của chim.[52] Cơ chế này cho phép các vùng không được cách nhiệt (tức là mỏ và chân) vẫn có nhiệt độ ổn định. Khi thiếu thực phẩm, nhiệt độ mỏ của chim giảm xuống, và khi thức ăn sẵn có tăng lên, nhiệt độ mỏ dần dần trở lại bình thường.[52] Sự co mạch của các mạch máu trong mỏ không chỉ là một cơ chế tiết kiệm năng lượng, mà còn làm giảm lượng nhiệt truyền từ các mô cơ thể chính đến da (thông qua giãn mạch ở da). Do đó, làm giảm tốc độ mất nhiệt bằng cách hạ nhiệt độ da so với môi trường.[52]

Mối quan hệ với con người

sửa
 
Việc sẵn sàng sử dụng khay cho chim ăn và hộp làm tổ của bạc má khiến chúng trở nên phổ biến với công chúng và hữu ích cho các nhà khoa học.

Bạc má lớn là một loài chim vườn phổ biến do khả năng nhào lộn của chúng khi ăn quả hạch hoặc hạt. Việc chim sẵn sàng di chuyển vào các hộp làm tổ đã khiến chúng trở thành một đối tượng nghiên cứu có giá trị trong ngành điểu học. Chúng đặc biệt hữu ích, vì giống như một mô hình để nghiên cứu sự tiến hóa của các đặc điểm lịch sử sự sống khác nhau, đặc biệt là kích thước ly hợp.[53] Một nghiên cứu tìm kiếm tài liệu cơ sở dữ liệu đã tìm thấy 1.349 bài báo liên quan đến Parus major trong khoảng thời gian từ 1969 đến 2002.[6]

Bạc má lớn nói chung đã thích nghi với những thay đổi của con người đối với môi trường. Chúng phổ biến hơn và sinh sản thành công hơn ở những khu vực có độ che phủ rừng không bị xáo trộn, nhưng cũng đã thích nghi với môi trường sống bị con người thay đổi. Chim có thể rất phổ biến ở các khu vực đô thị.[10] Ví dụ, quần thể sinh sản ở thành phố Sheffield (một thành phố có nửa triệu dân) được ước tính vào khoảng 17.000 cá thể.[54] Để thích nghi với môi trường có con người, tiếng hót của loài đã được quan sát thấy là thay đổi trong môi trường đô thị ô nhiễm tiếng ồn. Tiếng hót của loài có tần số cao hơn ở những khu vực có ô nhiễm tiếng ồn tần số thấp so với những khu vực yên tĩnh hơn.[55] Loài bạc má này đã mở rộng phạm vi của chúng, di chuyển về phía bắc tới Scandinavia và Scotland, và phía nam tới Israel và Ai Cập.[10] Tổng cá thể ước tính vào khoảng 300–1.100 triệu con chim trong phạm vi 32,4 triệu km2 (12,5 triệu dặm vuông Anh). Mặc dù đã có một số sự suy giảm dân số cục bộ ở những khu vực có môi trường sống kém chất lượng hơn, nhưng phạm vi rộng lớn và số lượng lớn của loài cho thấy bạc má lớn không bị coi là bị đe dọa, và chim được xếp là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN.[1]

Tham khảo

sửa
  1. ^ a b BirdLife International (2016). Parus major. The IUCN Red List of Threatened Species 2016. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T22735990A87431138.en
  2. ^ Péter Estók, Sándor Zsebők and Björn M. Siemers (2009). “Great tits search for, capture, kill and eat hibernating bats”. Biology Letters. 6 (1): 59–62. doi:10.1098/rsbl.2009.0611. PMC 2817260. PMID 19740892.
  3. ^ Linnaeus, Carl (1758). Systema naturae per regna tria naturae, secundum classes, ordines, genera, species, cum characteribus, differentiis, synonymis, locis. Tomus I. Editio decima, reformata (bằng tiếng La-tinh). Holmiae (Laurentii Salvii). tr. 189. P. capite nigro, temporibus albis, nucha lutea
  4. ^ Simpson, D.P. (1979). Cassell's Latin Dictionary (ấn bản thứ 5). London: Cassell Ltd. tr. 883. ISBN 978-0-304-52257-6.
  5. ^ Willughby, Francis (1681). The ornithology of Francis Willughby of Middleton in the county of Warwick, esq. ... London, United Kingdom: A.C. for John Martyn. tr. 240.
  6. ^ a b Kvist, Laura; Martens, Jochen; Higuchi, Hiroyoshi; Nazarenko, Alexander A; Valchuk, Olga P.; Orell, Markku (2003). “Evolution and genetic structure of the great tit (Parus major) complex”. Proceedings of the Royal Society B. 270 (1523): 1447–1454. doi:10.1098/rspb.2002.2321. PMC 1691391. PMID 12965008.
  7. ^ Paynter Jr. RA biên tập (1967). Check-list of birds of the world. Volume 11. Cambridge, Massachusetts: Museum of Comparative Zoology. tr. 104–110.
  8. ^ Päckert, Martin; Martens, Jochen; Eck, Siegfried; Nazarenko, Alexander A; Valchuk, Olga P; Petri, Bernd; Veith, Michael (2005). “The great tit (Parus major) – a misclassified ring species”. Biological Journal of the Linnean Society. 86 (2): 153–174. doi:10.1111/j.1095-8312.2005.00529.x.
  9. ^ Gill, Frank; Donsker, David biên tập (2010). “IOC World Bird Names (version 2.3)”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2010.
  10. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x Gosler, Andrew; Clement, Peter (2007). “Family Paridae (Tits and Chickadees)”. Trong del Hoyo, Josep; Elliott, Andrew; Christie, David (biên tập). Handbook of the Birds of the World. Volume 12: Picathartes to Tits and Chickadees. Barcelona: Lynx Edicions. tr. 662–709. ISBN 978-84-96553-42-2.
  11. ^ Päckert, Martin; Martens, Jochen (2008). “Taxonomic pitfalls in tits – comments on the Paridae chapter of the Handbook of the Birds of the World” (PDF). Ibis. 154 (4): 829–831. doi:10.1111/j.1474-919X.2008.00871.x. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2023.
  12. ^ a b Harrap, Simon; Quinn, David (1996). Tits, Nuthatches and Treecreepers. Christopher Helm. tr. 353–371. ISBN 978-0-7136-3964-3.
  13. ^ a b Mlíkovský, Jiří (ngày 26 tháng 8 năm 2011). “Nomenclatural and taxonomic status of bird taxa (Aves) described by an ornithological swindler, Josef Prokop Pražák (1870–1904)”. Zootaxa (3005): 45–68.
  14. ^ Avibase. The world bird database.
  15. ^ a b Norris, K. J. (1990). “Female choice and the evolution of the conspicuous plumage coloration of monogamous male great tits”. Behavioral Ecology and Sociobiology. 26 (2): 129–138. doi:10.1007/bf00171582. S2CID 36757531.
  16. ^ Dell'Amore, Christine (ngày 20 tháng 1 năm 2010). “Flashier Great Tit Birds Produce Stronger Sperm”. National Geographic. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010.
  17. ^ Fitze, PS; Kölliker M; Heinz Richner (2003). “Effects of Common Origin and Common Environment on Nestling Plumage Coloration in the Great Tit (Parus major)”. Evolution. 57 (1): 144–150. doi:10.1111/j.0014-3820.2003.tb00222.x. PMID 12643574. S2CID 24748894.
  18. ^ Laczi, Miklós; Hegyi, Gergely; Nagy, Gergely; Pongrácz, Rita; Török, János (2020). “Yellow plumage colour of Great Tits Parus major correlates with changing temperature and precipitation”. Ibis (bằng tiếng Anh). 162 (1): 232–237. doi:10.1111/ibi.12761. ISSN 1474-919X.
  19. ^ Swann, H Kirke (1913). A dictionary of English and folk-names of British Birds. Witherby & Co, London. tr. 108. ISBN 978-0-7158-1239-6.
  20. ^ Cocker, Mark; Mabey, Richard (2005). Birds Britannica. London: Chatto & Windus. tr. 391–392. ISBN 978-0-7011-6907-7.
  21. ^ Nowakowski, Jarosław K. (2001). “Speed and synchronization of autumn migration of the Great Tit (Parus major) along the eastern and the southern Baltic coast” (PDF). The Ring. 23 (1): 55–71. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2013.
  22. ^ Palmer TS (1893). The danger of introducing noxious animals and birds. US Department of Agriculture. tr. 104–105.
  23. ^ J.Dinsmo, Stephen; Silcock, W. Ross (2004). “THE CHANGING SEASONS: Expansions” (PDF). Changing Seasons.
  24. ^ Long, John L. (1981). Introduced Birds of the World: The worldwide history, distribution and influence of birds introduced to new environments. Terrey Hills, Sydney: Reed. tr. 332. ISBN 0-589-50260-3.
  25. ^ a b Ehrlich, Paul; Dobkin, David; Wheye, Darryl; Pimm, Stuart (1994). The Birdwatcher's Handbook. Oxford University Press. tr. 434. ISBN 978-0-19-858407-0.
  26. ^ a b Royoma, T (1970). “Factors governing the hunting behaviour and selection of food by the Great Tit (Parus major L.)”. Journal of Animal Ecology. 39 (3): 619–668. doi:10.2307/2858. JSTOR 2858.
  27. ^ Mols, C; Visser, M; Jones, Peter (2007). Jones, Peter (biên tập). “Great Tits (Parus major) Reduce Caterpillar Damage in Commercial Apple Orchards”. PLOS ONE. 2 (2): e202. Bibcode:2007PLoSO...2..202M. doi:10.1371/journal.pone.0000202. PMC 1784073. PMID 17285148.
  28. ^ Hawkins, T. (1950). “Opening of Milk Bottles By Birds”. Nature. 165 (4194): 435–436. Bibcode:1950Natur.165..435H. doi:10.1038/165435a0.
  29. ^ Lefebvre, Louis (1995). “The opening of milk bottles by birds: Evidence for accelerating learning rates, but against the wave-of-advance model of cultural transmission”. Behavioural Processes. 34 (1): 43–53. doi:10.1016/0376-6357(94)00051-H. PMID 24897247. S2CID 26052031.
  30. ^ Estók, Péter; Zsebők, Sándor; Siemers, Björn M (2010). “Great tits search for, capture, kill and eat hibernating bats”. Biology Letters. 6 (1): 59–62. doi:10.1098/rsbl.2009.0611. PMC 2817260. PMID 19740892.
  31. ^ Krebs, John R. (1971). “Territory and breeding density in the Great Tit, Parus major L”. Ecology. 52 (1): 3–22. doi:10.2307/1934734. JSTOR 1934734.
  32. ^ Harvey, Paul H; Greenwood, Paul J; Perrins, Christopher M (1979). “Breeding area fidelity of Great Tits (Parus major)”. Journal of Animal Ecology. 48 (1): 305–313. doi:10.2307/4115. JSTOR 4115.
  33. ^ Strohbach, Sabine; Curio, Eberhard; Bathen, Andrea; Epplen, Jorg; Lubjuhn, Thomas (1998). “Extrapair paternity in the great tit (Parus major): a test of the "good genes" hypothesis”. Behavioral Ecology. 9 (4): 388–396. doi:10.1093/beheco/9.4.388.
  34. ^ Pigeault, Romain; Cozzarolo, Camille-Sophie; Glaizot, Olivier; Christe, Philippe (2020). “Effect of age, haemosporidian infection and body condition on pair composition and reproductive success in Great Tits Parus major” (PDF). Ibis (bằng tiếng Anh). 162 (3): 613–626. doi:10.1111/ibi.12774. ISSN 1474-919X. S2CID 202013338.
  35. ^ Van Noordwijk, A.J.; McCleery, R.H.; Perrins, C.M. (1995). “Selection for the timing of Great Tit breeding in relation to caterpillar growth and temperature”. Journal of Animal Ecology. 64 (4): 451–458. doi:10.2307/5648. JSTOR 5648.
  36. ^ Jarvine, Antero (1991). “A meta-analytic study of the effects of female age on laying-date and clutch-size in the Great Tit Parus major and the Pied Flycatcher Ficedula hypoleuca. Ibis. 133 (1): 62–67. doi:10.1111/j.1474-919X.1991.tb04811.x.
  37. ^ Perrins, C. M.; McCleery, R. H. (1989). “Laying dates and clutch size in the Great Tit”. Wilson Bulletin. 101 (2): 236–253.
  38. ^ Wiggins, David A.; Moller, Anders P.; Sorensen, Martin; Brand, L. Arriana (1998). “Island Biogeography and the reproductive ecology of great tits Parus major”. Oecologia. 115 (4): 478–482. Bibcode:1998Oecol.115..478W. doi:10.1007/s004420050544. PMID 28308267. S2CID 10078007.
  39. ^ Cresswell, Will; McCleery, Robin (2003). “How Great Tits maintain synchronisation of their hatch date with food supply in response to long-term variability in temperature”. Journal of Animal Ecology. 72 (2): 356–366. doi:10.1046/j.1365-2656.2003.00701.x.
  40. ^ Galván, Ismael; Amo, Luisa; Sanz, Juan J. (2008). “Ultraviolet-blue reflectance of some nestling plumage patches mediates parental favouritism in great tits Parus major”. Journal of Avian Biology. 39 (3): 277–82. doi:10.1111/j.0908-8857.2008.04273.x.
  41. ^ Wilkin, Teddy A.; King, Lucy E.; Sheldon, Ben C. (2009). “Habitat quality, nestling diet, and provisioning behaviour in great tits Parus major”. Journal of Avian Biology. 40 (2): 135–145. doi:10.1111/j.1600-048X.2009.04362.x.
  42. ^ Dubiec, Anna; Cichoñ, Mariusz (2001). “Seasonal decline in health status of Great Tit (Parus major) nestlings”. Canadian Journal of Zoology. 79 (10): 1829–1833. doi:10.1139/cjz-79-10-1829.
  43. ^ Szulkin M, Sheldon BC (2008). “Dispersal as a means of inbreeding avoidance in a wild bird population”. Proc. Biol. Sci. 275 (1635): 703–11. doi:10.1098/rspb.2007.0989. PMC 2596843. PMID 18211876.
  44. ^ Götmark, Frank; Andersson (2005). “Predation by sparrowhawks decreases with increased breeding density in a songbird, the great tit”. Oecologia. 142 (2): 177–183. Bibcode:2005Oecol.142..177G. doi:10.1007/s00442-004-1715-z. PMID 15480803. S2CID 35611518.
  45. ^ Götmark, Frank (2002). “Predation by sparrowhawks favours early breeding and small broods in great tits”. Oecologia. 130 (1): 25–32. Bibcode:2002Oecol.130...25G. doi:10.1007/s004420100769. PMID 28547022. S2CID 19909152.
  46. ^ Skwarska, Joanna A.; Kalinski, Adam; Wawrzyniak, Jaroslaw; Banbura, Jerzy (2009). “Opportunity makes a predator: Great Spotted Woodpecker predation on Tit broods depends on nest box design”. Ornis Fennica. 86 (3): 109–112. ISSN 0030-5685.
  47. ^ Dunn, Euan (1977). “Predation by weasels (Mustela nivalis) on breeding tits (Parus spp.) in relation to the density of tits and rodents”. Journal of Animal Ecology. 46 (2): 633–652. doi:10.2307/3835. JSTOR 3835.
  48. ^ Balat, F (1981). “New Species of Biting Lice (Mallophaga) of the genera Penenirmus and Rostrinirmus (PDF). Folia Parasitologica. 28: 161–68. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2010.
  49. ^ a b Rothschild, Miriam; Clay, Theresa (1953). Fleas, Flukes and Cuckoos. A study of bird parasites. London: Collins. tr. 111, 249.
  50. ^ Samplonius, Jelmer M.; Both, Christiaan (2019). “Climate Change May Affect Fatal Competition between Two Bird Species”. Current Biology. 29 (2): 327–331.e2. doi:10.1016/j.cub.2018.11.063. PMID 30639109.
  51. ^ a b c Nord, Andreas; Metcalfe, Neil B.; Page, Jennifer L.; Huxtable, Anna; McCafferty, Dominic J.; Dawson, Neal J. (2021). “Avian red blood cell mitochondria produce more heat in winter than in autumn”. The FASEB Journal (bằng tiếng Anh). 35 (5): e21490. doi:10.1096/fj.202100107R. ISSN 1530-6860. PMID 33829547. S2CID 233185485.
  52. ^ a b c d Winder, Lucy A.; White, Stewart A.; Nord, Andreas; Helm, Barbara; McCafferty, Dominic J. (ngày 20 tháng 4 năm 2020). “Body surface temperature responses to food restriction in wild and captive great tits”. Journal of Experimental Biology. 223 (8). doi:10.1242/jeb.220046. ISSN 0022-0949. PMID 32312718. S2CID 216047432.
  53. ^ Perrins, C. M. (1965). “Population fluctuations and clutch-size in the great tit, Parus major L” (PDF). The Journal of Animal Ecology. 34 (3): 601–647. doi:10.2307/2453. JSTOR 2453. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  54. ^ Fuller RA, Tratalos J, Gaston KJ (2009). “How many birds are there in a city of half a million people?”. Diversity and Distributions. 15 (2): 328–337. doi:10.1111/j.1472-4642.2008.00537.x.
  55. ^ Slabbekoorn, Hans; Margriet Peet (2003). “Birds sing at a higher pitch in urban noise”. Nature. 424 (6946): 267. Bibcode:2003Natur.424..267S. doi:10.1038/424267a. PMID 12867967. S2CID 4348883.

Liên kết ngoài

sửa

  NODES
chat 1
INTERN 3