Người bản địa Úc
Dân tộc thiểu số châu Úc hay người bản địa Úc được xác định một cách hợp pháp là những thành viên "của các chủng tộc thổ dân của nước Úc" tại lục địa Australia hoặc đảo Tasmania.[2]
Trên: Windradyne, David Gulpilil, Albert Namatjira, David Unaipon, Mandawuy Yunupingu Dưới: Truganini, Yagan, Geoffrey Gurrumul Yunupingu, Bennelong, Robert Tudawali | |
Tổng dân số | |
---|---|
606.164 (2011)[1], 2.7% dân số Australia | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Northern Territory | 29.8% |
Queensland | 4.2% |
Western Australia | 3.8% |
New South Wales | 2.9% |
South Australia | 2.3% |
Victoria | 0.85% |
Ngôn ngữ | |
Hàng trăm ngôn ngữ thổ dân Úc, nhiều ngôn ngữ đã mai một, tiếng Anh Úc, tiếng Anh thổ dân Úc, tiếng Kriol | |
Tôn giáo | |
Hỗn hợp Kitô, và các nhóm tín ngưỡng Thần thoại của thổ dân úc | |
Sắc tộc có liên quan | |
Xem Danh sách tên các nhóm thổ dân Úc, thổ dân Tasmania |
Thổ dân úc thuộc chủng người da nâu. Ngày nay hầu hết họ sống ở phía đông nam nước Úc, tập trung dọc theo sông murray. Kể từ 1995 cờ thổ dân úc và cờ bản địa eo biển Torres được chính phủ Úc xem là hợp pháp.
Nguồn gốc
sửaCác học giả nói chung đã cho rằng thổ dân Úc không phải là họ hàng gần nhất của một số nhóm người Nam Á hoặc nhóm châu Phi. Mô hình di cư cho thấy tại nơi mà tổ tiên của họ đi qua Nam Á đến Australia mà không pha lẫn di truyền với các quần thể khác trên đường đi.[3]
Một nghiên cứu di truyền năm 2009 tại Ấn Độ tìm thấy điểm tương đồng giữa các quần thể cổ xưa của Ấn Độ và thổ dân Úc, cho thấy tuyến đường phát tán phía nam, là từ Đông Nam Á di cư tới Indonesia và Australia.
Nghiên cứu di truyền công bố năm 2011, các nhà nghiên cứu tìm thấy bằng chứng trong các mẫu DNA lấy từ tóc người thổ dân, đó là tổ tiên của thổ dân Úc tách ra từ tổ tiên chung của người châu Âu và châu Á vào quãng giữa 65 và 75 Ka BP, khoảng 24 Ka trước khi các quần thể châu Âu và châu Á chưa tách khỏi nhau. Những tổ tiên của thổ dân di cư vào Nam Á và sau đó vào Australia. Kết quả là bên ngoài châu Phi, thổ dân Úc là cư dân chiếm cứ lãnh thổ liên tục lâu hơn bất kỳ nhóm dân cư khác.[a]
Những phát hiện này cho thấy dân tộc thổ dân Úc hiện đại là hậu duệ trực tiếp của những người di cư từ châu Phi hồi 75 Ka BP. Phát hiện này được hỗ trợ bởi phát hiện khảo cổ ở di chỉ hồ Mungo được định tuổi 40 đến 68 Ka.[4][5]
Địa lý
sửaCác tên gọi dân tộc theo ngôn ngữ thổ dân Úc thường được sử dụng để xác định các nhóm dân tộc dựa trên địa lý, bao gồm:
- Anangu ở bắc phần South Australia, và lân cận ở Western Australia và Northern Territory
- Bama ở đông bắc Queensland
- Koori (hay Koorie, Goori, Goorie) ở New South Wales và Victoria
- Murri ở nam Queensland
- Noongar ở nam Western Australia
- Nunga ở nam South Australia
- Palawah (hay Pallawah) ở Tasmania.
Chỉ dẫn
sửa- ^ Tức là thổ dân Úc thuộc đợt phát tán đầu tiên diễn ra hồi 60 Ka BP và đến Úc vào 45 Ka BP. Những người Austronesia phát tán sau này, bắt đầu vào cỡ 40 - 35 Ka BP từ Ấn Độ và đến vòng đảo Đông Nam Á hay Sundaland vào cỡ 15 - 10 Ka BP
Tham khảo
sửa- ^ Estimates of Aboriginal and Torres Strait Islander Australians, June 2011, Australian Bureau of Statistics.
- ^ Một lời xin lỗi sau ba thập kỷ (về sự ngược đãi thổ dân ở Úc). Olympia Vietnam.
- ^ Edwards, W H (2004). An introduction to Aboriginal societies (2nd ed.). Social Science Press. p. 2. ISBN 978-1-876633-89-9.
- ^ Rasmussen et al. (ngày 7 tháng 10 năm 2011—published online ngày 22 tháng 9 năm 2011). An Aboriginal Australian Genome Reveals Separate Human Dispersals into Asia. Science (American Association for the Advancement of Science) 334 (6052): 94–98.
- ^ The first Aboriginal genome sequence confirms Australia's native people left Africa 75,000 years ago. Australian Geographic. ngày 23 tháng 9 năm 2011.