Thái Ly
Thái Ly (6 tháng 7 năm 1930 – 6 tháng 4 năm 1992) là một biên đạo múa Việt Nam. Ông là một nghệ sĩ lớn, một trong những người đặt nền móng cho nghệ thuật múa Việt Nam với những tác phẩm và kịch múa kinh điển như Đôi bờ, Cánh chim và ánh mặt trời, Katu, Bả Khó.[1] Ông còn là một giáo sư, một nhà lý luận phê bình về múa.
Thái Ly | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Nguyễn Đình Thái |
Ngày sinh | 6 tháng 7, 1930 |
Nơi sinh | Hải Dương |
Mất | |
Ngày mất | 6 tháng 4, 1992 | (61 tuổi)
Nơi mất | Huế |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | Biên đạo |
Học hàm | Giáo sư |
Lĩnh vực | Múa |
Danh hiệu | Nghệ sĩ nhân dân (1984) |
Sự nghiệp sân khấu | |
Vai trò |
|
Đào tạo | Học viện Nghệ thuật Bắc Kinh |
Tác phẩm | Cánh chim và ánh mặt trời |
Giải thưởng | |
Giải thưởng Hồ Chí Minh 1996 Văn học – Nghệ thuật | |
Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 (1996) và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân (1984).
Tiểu sử
sửaThái Ly tên thật là Nguyễn Đình Thái, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1930 tại Hải Dương trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật.[2]
Những năm 1950, khi đang làm việc ở Đoàn Ca múa Nhân dân trung ương tại chiến khu Việt Bắc, ông được cử sang du học ở Trung Quốc. Sau 5 năm học tại Học viện Nghệ thuật Bắc Kinh, ông tốt nghiệp khoa biên đạo múa với tác phẩm đầu tay Phá xiềng (Nghệ sĩ ưu tú Hoàng Điệp biểu diễn - âm nhạc Nguyễn Đình Tích).[2]
Khi về nước, ông là một trong những người xây dựng nên Trường múa Việt Nam (nay là Học viện Múa Việt Nam) và giữ cương vị phó hiệu trưởng. Trong thời gian này, ngoài cương vị quản lý và giảng dạy, ông đã dàn dựng nhiều tác phẩm múa, kịch múa lớn để đời.
Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ông giữ vai trò chỉ đạo Đoàn Ca múa Giải phóng. Ông cũng đi vào chiến trường miền Nam, trở thành Phó vụ trưởng vụ văn nghệ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Sau ngày Việt Nam tái thống nhất, ông góp phần thành lập Trường Múa thành phố Hồ Chí Minh. Ông tiếp tục tham gia vào các lĩnh vực sáng tác, huấn luyện, lý luận, biểu diễn và quản lý.
Thái Ly mất đột ngột vào ngày 6 tháng 4 năm năm 1992 tại Huế, khi 62 tuổi.[3]
Sự nghiệp
sửaSự nghiệp sáng tác của Thái Ly bao gồm nhiều tác phẩm múa và kịch múa, trong đó nhiều tác phẩm đã trở thành trở thành kinh điển trong nghệ thuật múa Việt Nam như: Đôi bờ (âm nhạc Nguyễn Đình Tích),[4] Cánh chim và ánh mặt trời (âm nhạc Xuân Hòa), Katu (cùng Nghệ sĩ ưu tú Ngân Quý, âm nhạc Nguyễn Đình Tích), kịch múa như Hái hoa dâng Bác (nhạc Vĩnh Cát),[5] Bà mẹ miền Nam (âm nhạc Xuân Hòa - Nguyễn Đình Tích),[4][6] Bả Khó (âm nhạc Nguyễn Đình Tích)[7]... Những sáng tác trong những năm chiến tranh Việt Nam như Xuống đường (âm nhạc Lưu Hữu Phước), Bài ca hi vọng (âm nhạc Văn Ký - Trường Nam), Hoa sen Đồng Tháp (âm nhạc Thanh Trúc), Hội nghị Diên Hồng, Tiếng cồng vượt thác (âm nhạc Lưu Nhất Vũ), Chông đồng khởi, Du kích vót chông, Xé ảnh tổng Ngô...[8] Thời kỳ hòa bình ông có các tác phẩm múa Mâm vàng Cửu Long, Tiếng chày trên sóc Bom Bo....
Cánh chim và mặt trời là một tác phẩm tiêu biểu của ông với "hình ảnh cánh chim vùng lên trong mưa gió, cố bay lên đón ánh mặt trời để nói về khát vọng tự do" đã được nghệ sĩ Chu Thúy Quỳnh và nhiều nghệ sĩ khác biểu diễn thành công.
Tác phẩm múa Katu ông dàn dựng cùng Ngân Quý thể hiện cô gái Katu trong hình tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay là một tác phẩm tiêu biểu cho múa dân tộc. Tác phẩm đã giành Huy chương bạc trong Hội diễn nghệ thuật toàn quốc năm 1962 và giải thưởng quốc tế tại Bulgaria. Katu cũng được người dân Katu (Quảng Nam) biểu diễn và đã được biểu diễn rộng rãi trên các sân khấu trong nước và quốc tế.
Về kịch múa, ông là người đã biên đạo cho vở kịch múa (ballet) đầu tiên của Việt Nam là Hái hoa dâng Bác vào năm 1960 (âm nhạc Vĩnh Cát dựa trên vở ca kịch Chúc thọ Bác Hồ của Lưu Hữu Phước).[9] Sau này ông lại dàn dựng cho 2 vở kịch múa Bà mẹ miền Nam và Bả Khó, sau này đều trở thành những vở vũ kịch kinh điển của Việt Nam.[10]
Thái Ly là nhà biên kịch múa hàng đầu, có nhiều đóng góp to lớn cho nghệ thuật múa Việt Nam. Nhạc sĩ Ca Lê Thuần đã nói về ông: "Thái Ly trở thành một người nghệ sĩ lớn của ngành múa Việt Nam, bởi ông đã tiếp cận với nghệ thuật múa bằng cả ba con đường triết học, tâm lý học và xã hội học. Do đó, các tác phẩm của ông luôn phù hợp với công chúng, với xã hội nhằm hướng con người đến những vấn đề lớn lao của đất nước và thời đại". Theo Nghệ sĩ nhân dân Lê Huân, Thái Ly là một trong những biên đạo múa Việt Nam đi tiên phong sử dụng ngôn ngữ múa cổ điển châu Âu vào trong các tác phẩm múa dân gian, dân tộc từ những năm 60 của thế kỷ 20.[10]
Ngoài công tác quản lý và sáng tác, ông đã giảng dạy cho nhiều nghệ sĩ mà sau này nhiều người đã trở nên nổi tiếng như các Nghệ sĩ nhân dân Chu Thúy Quỳnh, Kim Quy,[11] Lê Huân,[12] Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc,[13]...
Vinh danh
sửaÔng có học hàm Giáo sư.[14] Ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1984. Năm 1996, ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật với các tác phẩm Bả Khó, Bà mẹ Miền Nam, Bài ca hi vọng, Katu, Cánh chim và ánh mặt trời.[15] Ông là cá nhân đầu tiên trong ngành múa nhận được giải thưởng này.[16][17]
Năm 2021, tên Thái Ly được chọn để đặt tên cho một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh.[18][19] Ngày 25 tháng 12, Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học "GS.NSND Thái Ly – Cuộc đời và sự nghiệp".[20][21]
Tham khảo
sửa- ^ Lê Huân (1 tháng 6 năm 2021). “Nghệ sĩ nhân dân Thái Ly - Những điều tôi được biết”. Trang thông tin điện tử tổng hợp Văn Nghệ Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Tô Lộc Lâm (2001), tr. 180.
- ^ Thế Hải (5 tháng 4 năm 2008). “Kỷ niệm 16 năm ngày NSND Thái Ly qua đời: Đỉnh cao của tài năng”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Tô Lộc Lâm (2001), tr. 183.
- ^ Nguyễn Thụy Kha (2000), tr. 95.
- ^ Nguyễn Thu Hiền (30 tháng 4 năm 2013). “Nghệ thuật múa thể hiện đề tài lịch sử dân tộc”. Báo Nhân Dân. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Tú Ngọc (2000), tr. 504.
- ^ Trọng Trật Dương (1998), tr. 158.
- ^ Tô Lộc Lâm (2001), tr. 167.
- ^ a b VH (6 tháng 12 năm 2016). “Múa dân gian các dân tộc: Nguồn cội sáng tạo của múa chuyên nghiệp”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Hà Đình Nguyên (22 tháng 12 năm 2003). “Dìu nhau trên sàn diễn, dìu nhau trên đường đời”. Báo Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Lê Huân (7 tháng 5 năm 2019). “Nghệ sĩ Nhân dân Thái Ly (1930 - 1992) - Lê Huân”. Trang thông tin điện tử tổng hợp Văn Nghệ Đà Nẵng. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ “NSƯT Thành Lộc: 'Hãy sống tử tế với nhau'”. VnExpress. 26 tháng 8 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Văn phòng Bộ Văn hóa và Thông tin (2000).
- ^ Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2005), tr. 134.
- ^ Nguyễn Trâm Anh (26 tháng 5 năm 2003). “Tọa đàm khoa học, biểu diễn nghệ thuật múa tưởng niệm NSND Thái Ly: Tiếp cận nghệ thuật múa bằng triết học, tâm lý học, xã hội học”. Người Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1998).
- ^ Nguyễn Thủy (9 tháng 12 năm 2020). “TP.HCM: 224 tuyến đường được đặt tên mới”. Báo Nông nghiệp Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Trang Anh (25 tháng 12 năm 2021). “Giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Thái Ly-cây đại thụ của ngành múa Việt Nam”. Báo Nhân Dân. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Hoàng Minh (25 tháng 12 năm 2021). “GS.NSND Thái Ly – Cánh chim đầu đàn của nghệ thuật múa Việt Nam”. Báo Đại đoàn kết. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
- ^ Khánh Hà (25 tháng 12 năm 2021). “GS, NSND Thái Ly – Cuộc đời và sự nghiệp”. Báo Quân đội nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2022.
Nguồn
sửa- Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (2005). Từ điển bách khoa Việt Nam: T-Z. Từ điển bách khoa Việt Nam. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. OCLC 255671184.
- Nguyễn Thụy Kha (2000). Những gương mặt âm nhạc thế kỷ: Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Văn Cao, Hoàng Việt. Hà Nội: Viện âm nhạc. OCLC 46870748.
- Tô Lộc Lâm (2001). Truyền thống nghệ thuật Việt Nam và sự nghiệp phát triển của nó. Viện văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 50386845.
- Tú Ngọc (2000). Âm nhạc mới Việt Nam: tiến trình và thành tựu. Hà Nội: Viện Âm nhạc. OCLC 682149444.
- Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1998). 50 năm liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, 1948-1998. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội nhà văn. OCLC 42736863.
- Trọng Trật Dương (1998). 300 câu hỏi, 300 năm Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh. OCLC 45698800.
- Văn phòng Bộ Văn hóa và Thông tin (2000). Hành trình vào thiên niên kỷ mới. Hà Nội: Bộ Văn hóa và Thông tin. tr. 94. OCLC 645819839.